Sunday, 25 May 2014

Phap Khi Kinh Luan

NĂNG LỰC CỦA KINH LUÂN THỜI NAY
(Pháp vương Jigdal Dagchen Sakya)

Ý NGHĨA CỦA KINH LUÂN TRONG THỰC HÀNH TÂM LINH VÀ TÍCH LŨY CÔNG ĐỨC TRÍ TUỆ:
NGUỒN: Trích từ trang:http://nyingmapavietnam.com/nangluckinhluanthoinay.html


Ở Tây tạng trước đây, bất kỳ nơi đâu bạn đi qua, bạn sẽ bắt gặp mọi người nhất là người già, tay quay kinh luân từ sáng đến tối, trong lúc miệng đọc tụng câu chú Om Mani Padme Hum (là câu kinh Tây tạng bằng tiếng Phạn đầy năng lực) để làm vơi nỗi khổ của mọi chúng sanh.


Lẽ sống của đời tôi là bảo tồn cả văn hóa và Phật giáo Tây tạng. Kinh luân là một bộ phận không thể tách rời khỏi văn hóa và thực hành tâm linh Phật giáo Tây tạng. Mặc dù sanh ra và lớn lên ở Tây tạng, nhưng hiện nay tôi sinh sống tại nước Mỹ và quanh tôi là những học trò thông thạo công nghệ máy tính mà tôi không thể tưởng tượng ra khi còn ở quê nhà.
Mục đích ban đầu của thực hành kinh luân của truyền thống Phật giáo Tây tạng là xoa dịu mọi chúng sanh đang dau khổ. Với việc thực hiện một kinh luân Tây tạng ở tu viện Sakya, chúng tôi đã nối kết sự tuyệt hảo của thực hành tâm linh Tây tạng với công nghệ máy tính hiện đại bậc nhất để tạo ra một “nghi thức của nghệ thuật mới” qua sự kết hợp tâm linh - công nghệ hiện đại hoặc như đệ tử của tôi Chuck Pettis gọi vắn tắt là ‘Tibet-Tech’.
Kinh luân lớn nhất ở Tây tạng, Om Mani Dunkhor, chứa 100 triệu thần chú Mani. Kinh luân Tibet-Tech, nhỏ gọn nhưng chứa đựng số lượng thần chú nhiều hơn bất kỳ những cái đã từng được làm trước đây. Với 1,349,580,000,000 thần chú trong mỗi vòng quay, Kinh luân Tibet-Tech có khả năng tạo ra vô số công đức, niềm an bình và từ ái vô biên xoa dịu nỗi đau khổ của chúng sanh.
Việc chú tâm quay kinh luân với số lượng 1,300 tỷ thần chú tạo ra một lượng công đức và lợi lạc tương đương với việc trì tụng 1,300 tỷ thần chú. Điều này được thành tựu nhờ quay kinh luân theo chiều kim đồng hồ sẽ kích động và phóng xuất năng lực của những thần chú bên trong. Giả sử tụng một câu chú mất một giây, thì phải mất xấp xỉ 42,776 năm để đọc tụng 1,300 tỷ câu chú. Nhưng chỉ với một lần quay, kinh luân Tibet-Tech (100 vòng / 1 lần quay) sẽ phát ra 27,000 thần chú cho mỗi người trong số 5 tỷ người trên hành tinh. Nếu xếp nối đuôi nhau, những câu chú này sẽ trải dài từ trái đất đến mặt trăng rồi quay lại được 607,500 lần!
Để hiểu rõ năng lực của các kinh luân, chúng ta phải thấu hiểu năng lực của các thần chú (mantra). Chữ mantra bắt nguồn từ tiếng Phạn mà nghĩa đích thực của nó là “bảo vệ tâm”. Trong văn hóa Tây tạng, các thần chú được giải thích là những chủng tự tâm linh được ban năng lực của các bậc giác ngộ, đem lại lợi lạc cho hữu tình chúng sanh.
Nhiều Phật tử trì tụng Om Mani Padme Hum, thần chú Lục-tự của Chenezi, vị Bồ tát của lòng từ bi. Mặc dầu thật khó thành tựu, song một số Phật tử tinh tấn đã trì tụng 100 triệu biến chú Om Mani Padme Hum trong suốt cuộc đời của họ. Lợi ích phát sinh từ khối công đức đó, là họ hiển lộ sự thành tựu và an định, có khả năng cứu giúp người khác và không còn sợ hãi cái chết. Số khác thậm chí mọc răng mới khi họ đã 80-90 tuổi. Tự bản thân tôi biết có người đã làm được như vậy.
Trong Phật giáo Tây tạng, việc trì tụng thần chú là một trong những phương pháp hiệu quả nhất nhờ đó họ thực sự đạt được sự an lạc, xả ly và hạnh phúc trong tâm hồn. Về mặt tinh thần, các thần chú làm hiển lộ và là chất xúc tác cho tâm giác ngộ xuyên qua những âm thanh thiêng liêng cùng với sự cầu khẩn các Bổn tôn, Chư Phật, Chư vị Bồ tát, các Dakini và các đấng linh thánh khác. Năng lực của kinh luân phát xuất từ lòng từ bi vô lượng của các bậc linh thánh luôn muốn dẫn dắt mọi chúng sanh đến giác ngộ càng sớm càng tốt.

Những lợi ích của Kinh luân

Sự thực hành Kinh luân có rất nhiều lợi ích kỳ diệu. Tương truyền, kinh luân được mang đến trái đất từ thế giới của loài Rồng (là những chúng sanh sống trong các đại dương) nhờ bồ tát Long thọ vì ngài được mách bảo bởi bồ tát Quan-Âm trong một linh kiến rằng “những lợi ích của nó đối với chúng sanh là vô cùng to lớn”. Ngài Long thọ đã trao cho vị Dakini mặt sư tử phương pháp thực hành kinh luân, về sau vị này dạy lại cho Đức Liên-Hoa-Sanh, người đã truyền nó vào Tây tạng.
Đức Phật Thích-Ca Mâu-Ni dạy rằng một lần quay kinh luân còn tốt hơn là nhập thất trong nhiều năm, dù đó là một thực hành tâm linh mãnh liệt. Ngài bảo “Chuyển bánh xe pháp còn tốt hơn lắng nghe, suy tư và thiền định trong một tỷ năm”
Đức Phật A-Di-Đà dạy “Kẻ nào trì tụng thần chú Sáu âm trong lúc quay kinh luân phước của kẻ đó ngang với 1000 vị Phật”. Đức Liên-Hoa-Sanh bảo “ngay cả với kẻ thiếu kiên trì, vẫn có được những năng lực kỳ diệu. Những ai tinh tấn trì tụng Sáu âm và quay kinh luân thì không nghi ngờ gì nữa họ sẽ đạt được thập địa”.
Sừ dụng kinh luân là một trong những cách thức dễ dàng nhất để tịnh hóa nghiệp tiêu cực trong quá khứ, mọi ác hạnh, nhiễm ô và những chướng ngại ngăn che chúng ta nhận ra tự tánh của mình và vạn pháp. Đức Phật dạy “Lợi ích nhất chính là mọi nghiệp lực và vô minh phiền não tích tập trong chuỗi tái sinh dài vô tận được tịnh hóa dễ dàng không nhọc công”.
Những lợi ích khác của thực hành kinh luân :

Chuyển thân, khẩu, ý của hành giả thành thân, khẩu, ý của một vị Phật. Thân của người đó trở thành cõi tịnh độ.
Chuyển nhà cửa và của cải của hành giả thành cõi tịnh Potala an lạc và quý báu hoặc cảnh giới cao của chư Thiên.
Cứu mọi chúng sanh trong khu vực chung quanh kinh luân không đọa vào các cõi thấp (như súc sanh chẳng hạn).
Tịnh hóa thân, khẩu và ý của hành giả.
Tích lũy lượng công đức bao la cho chính mình và mọi chúng sanh trong vùng

Ngăn chặn những tai họa gây ra bởi các tinh linh và ác ma.
Chữa lành mọi bệnh tật và ngăn chặn sự lây lan của dịch bệnh.

Sau đây liệt kê những lợi lạc của việc quay kinh luân được mô tả trong hai bản văn
Phật giáo Tây tạng cổ. Trước hết là những lợi ích đề cập đến trong “Ma ni'i phan yon” hoặc “Lợi lạc của Mani”:

Những bổn tôn thiền định, chư Dakini và hộ pháp sẽ tự nhiên gia hộ bạn khi quay kinh luân.
Quay kinh luân có năng lực ban phước nhanh chóng; nó có sự thiện xảo thật lớn lao về mặt phương tiện; hành động của nó thật nhanh chóng; nó có năng lực giải thoát khỏi những chướng ngại ma quỷ, ngoại đạo, phá giới, 80,000 loài ma, 360 tinh linh xấu, 18 cái chết phi thời, ngăn ngừa mọi chướng ngại và sẽ bảo hộ chúng ta. Mọi kẻ thù đều vượt qua.
Kinh luân như viên ngọc báu : bất cứ điều gì bạn muốn, nó sẽ hoàn thành những thành tựu thông thường và siêu việt.
Quay kinh luân với sự ăn năn sám hối lớn lao sẽ loại trừ 5 hành động bị báo ứng nhãn tiền, 4 trọng tội, 8 tà kiến, 10 hành vi bất thiện.
Trong lúc bạn quay, bất kỳ ai nhìn thấy bạn quay kinh luân, chạm vào bạn hoặc kinh luân, nhớ nghĩ đến bạn hay kinh luân, được bóng của bạn hoặc kinh luân phủ lên sẽ không bao giờ đọa vào 3 đường ác, và được đưa vào con đường của Phật quả.
Quay kinh luân có năng lực mạnh mẽ hơn 100 vị tăng tụng kinh và thần chú Trường thọ, và mãnh liệt hơn 100 yogi đang thiền quán về vòng bảo vệ kim cang.
Bất kỳ nam hay nữ quay kinh luân sẽ đạt được mọi điều họ ước muốn vì điều đó hòa hợp với pháp.
Bất kỳ ai quay kinh luân sẽ không tái sanh làm một gia chủ tà kiến, người què, mù, câm, điếc hoặc nghèo khổ.
Bạn sẽ đạt được trí tuệ giác ngộ bình đẳng hành động vì lợi ích của chúng sanh.

Tiếp theo là những lợi ích của việc quay kinh luân theo “Ma ni ′khor lo′i phan yon” hay còn gọi là “Lợi lạc của kinh luân” :

Quay kinh luân 1 lần tương đương với việc đọc 1 lần Tanjur (luận giải về giáo lý của Phật)
Quay 2 lần đồng đẳng với việc đọc Kanjur 1 lần (kinh Phật)
Quay 3 lần sẽ loại bỏ những chướng ngại của thân, khẩu, ý.
Quay 10 lần sẽ loại bỏ khối ác hạnh to lớn như núi Tu-di.
Quay 100 lần sẽ sánh ngang Yama, vua Pháp.
Quay 1000 lần sẽ nhận ra ý nghĩa của Pháp thân, làm lợi ích cho chính mình.
Quay 10,000 lần sẽ có khả năng làm lợi ích cho kẻ khác
Quay 100,000 lần sẽ được sanh làm người hầu của Đức Chenrezi.
Quay 1 triệu lần, chúng sanh trong sáu cõi sẽ đạt được đại dương hạnh phúc.
Quay 10 triệu lần, sẽ cứu thoát tất cả chúng sanh hữu tình khỏi địa ngục.
Quay 100 triệu lần, bạn sẽ đồng đẳng với Đức Chenrezi tôn quý.
Theo “Chu klung chen po ′i m do” (Kinh dòng sông vĩ đại) mỗi lần quay kinh luân sẽ có lợi lạc nhiều hơn việc thiền định trong 7 năm. Quay 1 lần lợi lạc to lớn hơn việc giảng, học giáo lý và thiền định trong 1 tỷ năm; lợi lạc hơn hẳn nỗ lực thực hành lục độ trong 1 tỷ năm, đạt ích lợi vượt trội hơn cả giảng dạy và học hỏi Tam Tạng kinh điển và 4 cấp độ Tantra trong 1 tỷ năm. Trì tụng thần chú Lục tự và quay kinh luân vào những ngày thiêng liêng thì có phước ngang bằng với 1000 vị Phật. Những ai quay kinh luân sẽ trở thành những bậc Bồ tát thân cận của 1000 vị Phật.
Vào lúc chết, khi đặt kinh luân ngay trên lỗ Brahma sẽ tạo ra sự chuyển di thần thức.

Liệt kê trên chỉ sơ lược một vài lợi lạc mà thôi, không thể mô tả hết diệu dụng của việc hành trì kinh luân.

Quán tưởng đúng đắn khi quay kinh luân

Việc quay kinh luân không phải là một thực hành với tâm lơ đãng. Việc hành trì kinh luân phải được thực hiện với những mục đích đúng đắn. Việc quay kinh luân phải quán tưởng nó như sự hiển lộ của thân, khẩu và ý của chư Phật. Trên phương diện thân, tay của chúng ta quay và chuyển động kinh luân. Về phương diện khẩu, miệng chúng ta trì tụng một trong những thần chú của kinh luân (vd. Om Mani Padme Hum). Về phương diện ý, chúng ta chuyên chú vào việc quán tưởng hoặc trì tụng, phát khởi động lực của chúng ta là vì lợi lạc của chúng sanh và sự an bình của xung quanh và toàn thể pháp giới.

Quán niệm trong lúc quay kinh luân bao gồm:

Trì tụng Om Mani Padme Hum trong khi quay kinh luân. Việc này giúp tâm chúng ta trở nên kiên cố và tập trung tốt nhất vào thực hành và tăng trưởng lợi lạc vì tất cả chúng sanh.
Chuyên chú tâm của bạn vào lòng từ bi, bình đẳng và lợi ích vì tha nhân, không phải cho bạn.
Quán tưởng những tia sáng rực rỡ như mặt trời, phóng ra từ kinh luân chiếu sáng mười phương. Những tia sáng này phá hủy mọi ác nghiệp và đau khổ không chỉ của loài người, mà tất cả chúng sanh bao gồm súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục, a-tu-la và chư thiên. Mọi ác nghiệp bị thu hút vào kinh luân và tiêu tan.
Tập trung vào một vấn đề, chẳng hạn chiến tranh hoặc thảm họa, quay kinh luân nghỉ tưởng đang hóa giải nỗi đau thương của chúng sanh đang gặp nạn.
Hồi hướng công đức của việc thực hành kinh luân nhằm tịnh hóa nguyên nhân căn bệnh của ai đó để điều trị bệnh.

Đức Phật đã từng dạy rằng không hồi hướng công đức giống như giọt nước rơi trên đá, nó nhanh chóng bay hơi và biến mất. Hồi hướng công đức như giọt nước rơi vào biển cả, nó còn mãi cùng với đại dương bao la. Sau khi quay kinh luân, thật lợi lạc khi hồi hướng công đức của việc thực hành thiêng liêng này vì sự giải thoát của chúng sanh hữu tình, đánh thức Bồ đề tâm, vì sự trường thọ và truyền bá giáo pháp của các vị Thầy.



Khi nào sử dụng Kinh luân

Bạn có thể quay kinh luân khi đang thực hành thiền định và trì tụng thần chú hàng ngày. Nó cũng có thể được sử dụng trong những đàn tràng trì tụng Chenrezi, Bát nhã tâm kinh, Thập nhị nhân duyên của Đức Phật, v.v… Kinh luân không được quay khi Đạo sư đang nói hoặc giảng dạy giáo lý. Kinh luân có thể quay khi đang kinh hành bảo tháp, thánh địa và thậm chí trong lúc xem tivi hay nghe radio hoặc âm nhạc.

Kinh luân Tibet-Tech đã được thực hiện như thế nào?

Kinh luân truyền thống được lấp đầy thần chú bằng giấy có in thần chú quấn thành một khối đặt bên trong kinh luân. Bởi vì một kinh luân càng nhiều năng lực khi càng có nhiều thần chú bên trong, các bậc thầy như Zopa rinpoche đã xếp thần chú lên tấm micro phim để tăng số lượng thần chú trong kinh luân. Với kinh luân Tibet-Tech đây là lần đầu tiên áp dụng đĩa DVD để lưu trữ thần chú bên trong kinh luân.
Ý tưởng của kinh luân hiện đại này phát xuất từ Chuck Pettis, chủ tịch tu viện Sakya, anh ta nói về điều này như sau : Pháp vương Jigdal Dagchen Sakya (Dagchen Rinpoche) và Nhiếp chính vương Dagmo Kusho Sakya (Dagmo Kusho) đã khuyên tôi sử dụng kinh luân để tu tập hàng ngày. Các vị đã tặng cho tôi 2 cái kinh luân. Một cái bằng điện và quay liên tục trên bàn thờ của tôi. Cái thứ hai tôi cầm trên tay và quay trong lúc trì tụng các thần chú hàng ngày. Khi tôi khởi sự quay kinh luân, ngay lập tức vợ tôi chú ý vì sự xuất hiện một bầu không khí thiêng liêng mạnh mẽ bao trùm phòng thờ của tôi. Một hôm, trong khi thiền định, một câu hỏi nảy sinh trong đầu : “Có bao nhiêu thần chú có thể đặt trong kinh luân ?” Kết quả là kinh luân Tibet-Tech ra đời.
Công ty của Chuck Pettis, ‘Bảo tồn trái đất’, phụ trách việc sản xuất các kinh luân Tibet-Tech. Bây giờ, anh ta sẽ giải thích làm thế nào kinh luân Tibet-Tech được chế tạo. ‘Ngay từ lúc bắt đầu, Dagmo Kusho và tôi đã liên lạc với Tarthang Tulku Rinpoche của Trung tâm thiền định Nyingma Tây tạng, người đã tạo ra hơn 1,600 kinh luân. Tarthang Rinpoche thật tử tế vì đã trao cho chúng tôi một tài liệu rất hữu ích, ‘Kinh luân của các trung tâm Nyingma’.
Kinh luân Tibet-Tech là lần đầu tiên áp dụng kỹ thuật DVD để đưa mantra vào kinh luân. Mỗi thần chú trong 8 thần chú được chứa trong 10x5000 ô (cell) thành một ma trận trên một trang làm việc (worksheet) của phần mềm Microsoft Excel, sau đó chúng được xuất sang định dạng tập tin của Adobe Acrobat-6.0 PDF chứa 50,000 thần chú. Một ngàn tập tin PDF này được nén thành một tập tin chứa 50 triệu thần chú. Mỗi thần chú bao gồm rất nhiều tập tin nén trên được ghi vào một đĩa DVD. Mỗi chú có mười sáu đĩa DVD, tổng cộng 8 chú có 128 đĩa được chứa trong một kinh luân.
Tổ hợp độc đáo của các thiết bị tâm linh này được dựa trên kỹ thuật thiết kế kinh luân cổ truyền kết hợp với công nghệ máy tính hiện đại. Ở trung tâm là cột gỗ đàn hương hình tháp được Yeshe Tulku sơn lên 3 chủng tự Om Ah Hum, biểu tượng của thân, khẩu và ý của Phật. Chồng lên nhau và bao quanh trụ này là 128 đĩa DVD, bao gồm 8 bộ 16 đĩa DVD trong đó là 8 chú (xem giải thích của các thần chú và lợi lạc của chúng bên dưới). Dagchen Rinpoche chọn thần chú. Yeshi Tulku viết ra thần chú. Dagmo Kusho và Dagchen Rinpoche đọc sửa lỗi các thần chú. Sau đó, Tom Ashbrook, một thành viên trong ban quản trị tu viện, sắp xếp các thần chú vào trang giấy, chúng lại được kiểm tra kỹ và in thử. Cuối cùng, Tom Ashbrook lưu lại và nén các thần chú vào đĩa DVD với định dạng PDF bằng bộ ghi đĩa Disc Makers ReflexPro7 DVD+RW. Tom Ashbrook nói rằng “Quá trình ghi đĩa DVD, với tôi trông giống như các thần chú được viết bằng ánh sáng cầu vồng lên đĩa”. Nhãn được dán lên mỗi đĩa, trong đó ghi tên thần chú, câu chú bằng chữ Tây tạng, số lượng thần chú trên đĩa và con dấu của tu viện Sakya. Bên dưới và trên của mỗi chồng đĩa DVD là biểu tượng bánh xe đất và bánh xe trời khắc nỗi trên đồng được vẽ bởi Zopa Rinpoche và mô tả trong cuốn sách “Bánh xe đại bi : Thực hành kinh luân của Phật giáo Tây tạng” của tác giả Lorne Ladner (Nhà xuất bản Trí tuệ, 2000).
Toàn bộ thiết kế và chế tác vỏ bọc của kinh luân được thực hiện bởi nghệ nhân kim loại Mike Sweeney với sự trợ giúp của một vài kỹ sư của Charlie Pettis (Cha của Chuck Pettis). Đĩa DVD được bao bọc bằng một hộp hình trụ bằng đồng và thau. Chúng đặt trên một khối lập phương có ổ bi và bộ đếm số vòng quay của kinh luân. Kinh luân chuyển động bằng cách đặt tay vào bốn càng ở đáy hình trụ và quay theo chiều đồng hồ. Các quả cầu gỗ ở đầu mút của mỗi càng được làm từ gỗ Jarra thuộc họ bạch đàn Úc, một loại gỗ rất bền bĩ với thời tiết bên ngoài. Om Mani Padme Hum được Yeshe Tulku vẽ tay dưới dạng chữ Ranjana của Ấn độ và được dập nổi trên vỏ đồng bọc ngoài.
Toàn bộ kinh luân được làm kín bằng silicon để bảo đảm khô ráo bên trong và đậy kín bởi một nắp trang hoàng đặc biệt làm bằng máy tương tự kinh luân của vị Dagmo Kusho. Con dấu của tu viện Sakya được dập nổi trên đồng và gắn vào mặt trước của kinh luân cạnh bộ đếm vòng quay…
Sau khi kinh luân hoàn tất vào ngày 13 tháng 5 năm 2004, chúng được ban phước và dâng cúng bởi chính tôi (Dagchen Rinpoche) với sự trợ giúp của Dagmo Kusho và Yeshi Tulku. Lễ ban phước có 3 phần. Đầu tiên là tán tụng thần chú, tiếp theo dâng cúng kinh luân. Cuối cùng, hồi hướng công đức vì lợi lạc của toàn thể chúng sanh và cầu nguyện cho hòa bình thế giới. Bao giờ vũ trụ còn tồn tại, bấy giờ những thần chú này vẫn còn hiệu nghiệm.
Bộ ba kinh luân đầu tiên được đặt ở trung tâm nhập thất của tu viện Sakya, trung tâm thiền định Tara trong khuôn viên công ty ‘Bảo tồn trái đất’. Những kinh luân này được đặt trên những trụ đá gần Dolmen, vành đá Cottonwood và vành đá Fen, ở đó chúng được quay bởi những hành giả nhập thất và khách hành hương để tạo ra những công đức to lớn vì lợi lạc của tất cả chúng sanh và đem lại hòa bình cho thế giới. Vào ngày 9 tháng 3 năm 2005, những kinh luân trên đã được quay trên 375,000 vòng, phát ra 507,837,506,940,000,000 thần chú

Các Thần chú trong kinh luân Tibet-Tech

Thần chú trong kinh luân tiêu biểu cho những giáo lý nền tảng của Đức Phật. Những thần chú là những từ được chính Đức Phật nói ra và chưa bao giờ bị thay đổi. Các thần chú kết hợp sức mạnh âm thanh của Phật và sức mạnh của ý nghĩa, vì mỗi câu chú đại diện cho những sự thật và giáo lý sâu thẳm.
Các thần chú được xếp chồng từ dưới lên bắt đầu từ bộ 16 đĩa DVD A-li, tiếp theo 16 đĩa DVD Ka-li, và tiếp tục cho đến cuối cùng là bộ đĩa thần chú Kim-cang Tát-đỏa.

Thần chú


Số lượng thần chú trên một đĩa


Số lượng đĩa DVD trong kinh luân


Số lượng thần chú trong kinh luân

1-A-li


21,750,000,000


16


348,000,000,000

2-Ka-li


7,000,000,000


16


112,000,000,000

3-Ta-ra


12,650,000,000


16


202,400,000,000

4-Ma-ni


14,400,000,000


16


230,400,000,000

5-Long-life


13,400,000,000


16


214,400,000,000

6-Se-dhe


9,800,000,000


16


156,800,000,000

7-Ye-dhr-ma


5,250,000,000


16


84,000,000,000

8-Vajrasattva


98,750,000


16


1,580,000,000

Tổng cộng


84,348,750,000


128


1,349,580,000,000

1. A-li Mantra:

AA II UU RiRi LiLi E Ai O Au Am Ah
A-li, nghĩa là nguyên âm, là 16 nguyên âm Phạn, chúng là những âm gốc, rung động nền tảng của toàn thể các thần chú và là những chữ đầu tiên được giảng dạy bởi Phật Thích-ca Mâu-ni.

2. Ka-Li Mantra:

Ka Kha Ga Gha Nga Tsa Tsha Dza Dzha Nya
Tra Thra Dra Dhra Nra Ta Tha Da Dha Na
Pa Pha Ba Bha Ma Ya Ra La Wa Sha Kha Sa Ha Cha

Ka-li, nghĩa là phụ âm, là 34 phụ âm Phạn được cho là tiếng Phạm thiên. Vì thế, thần chú này tịnh hóa khẩu của bạn.

Ở Tây tạng, khi các yogi và yogini chuẩn bị nhập thất, trước tiên họ rửa mặt rồi trì tụng nhiều lần chú Ka-li để tịnh tâm trước khi vào thất. Thực tế, sự kết hợp và sắp xếp trình tự các thần chú trong kinh luân cho phép bạn gặt hái những lợi lạc đích thực của nhập thất nếu bạn quay kinh luân với mục đích đó trong tâm.

3. Ta-ra Mantra

Om Tare Tuttare Ture Soha

Tara là Mẹ của tất cả chư Phật và Bồ tát. Ngài đại diện cho mọi hoạt động của chư Phật. Ngài cứu giúp mọi người nhanh chóng ngay tức thì.
Om là thân, khẩu và ý thiêng liêng của Tara. Tare giải thoát chúng ta khỏi đau khổ và kiểm soát vọng tưởng và nghiệp. Tuttare giải thoát chúng ta khỏi sợ hãi và nguy hiểm. Ture giải thoát chúng ta khỏi vô minh. Soha nghĩa là ‘nguyện cho ý nghĩa của thần chú bén rễ trong tâm con’.

4. Ma-ni Mantra

Om Mani Padme Hum
Mỗi âm trong sáu âm của thần chú này – Om, Ma, Ni, Pad, Me, Hum – đại diện cho một trong sáu cõi : Địa ngục, Ngạ quỹ, Súc sanh, Nhân, A-tu-la và Thiên. Thần chú Mani này là thần chú phổ biến nhất trong tất cả các thần chú của Phật giáo. Nó mang ý nghĩa vô cùng sâu rộng. Nói vắn tắt, Om Mani Padme Hum là thần chú của Chenrezi, vị Bồ tát của lòng từ bi.
Thần chú này cũng được nhìn thấy bên ngoài vỏ đồng kinh luân dưới dạng ký tự Ranjana cổ của Ấn độ.

5. Long-Life Amitayus Mantra

Om Amarana Tsibin Tiye Soha

Amitayus là vị Phật trường thọ.

6. Se-dhy Mantra

Om Ah Hum Bendza Guru Padma Siddhi Hum - Con cầu khẩn Ngài, bậc Thầy kim cang, Đức Liên-Hoa-Sanh; nhờ sự ban phước của Ngài nguyện Ngài ban cho chúng con những thành tựu thông thường và tối thắng.
Thần chú này của Đức Liên-Hoa-Sanh, còn được gọi là Guru Rinpoche và vị Phật thứ hai. Thần chú này cầu khẩn Đức Liên-Hoa-Sanh ban phước cho chúng ta, bảo hộ chúng ta, xóa tan chướng ngại và ban cho chúng ta những năng lực linh thánh và sự chứng ngộ.
7. Ye-dhr-ma Mantra

Ye Dharama Hetu Prabhava Hetun Teshan Tathagato Hyavadat Tekhan Tsayo
Nirodha Evam Bhadi Maha Shramana
Ye-dhr-ma là thần chú của sự cúng dường, an định và tánh không.
8. Vajrasattva 100-Syllable Mantra

Om Bendza Sato Samaya Manupalaya Bendza Sato Tenopa Tita Dridho Me
Bhawa Suto Kayo Me Bhawa Anurakto Me Bhawa Supo Kayo Me Bhawa Sarwa
Siddhim Me Trayatsa Sarwa Karma Sutsa Me Tsittam Shreyam Kuru Hung HA HA HA HA HOH Bhagawan Sarwa Tatagata Bendza Mame Muntsa Bendzi Bhawa Maha Samaya Sato AH
Chú trăm âm là thần chú của Kim-cang Tát-đỏa. Lợi ích chính yếu của nó là tịnh hóa và từ bi.

http://nyingmapavietnam.com/images/nangluckinhluanthoinay_clip_image022.jpgMindroling Việt Nam phiên dịch từ các bài viết của
Đức Jigdal Dagchen Sakya:

The Use and Benefits of Prayer Wheels
The Power of “Modern” Prayer Wheels

Pháp vương Jigdal Dagchen Sakya là bậc Thầy đứng đầu của dòng Sakya và tu viện Sakya của Phật giáo Tây tạng tại Seattle. Dagchen Rinpoche đã sanh ra và tu tập như một lãnh đạo tôn giáo ở Tây tạng xưa. Các vị lãnh đạo Sakya nắm giữ vị trí thứ ba sau Đức Dalai Lama về mặt thứ bậc. Dagchen Rinpoche cũng là một trong số ít các vị trưởng dòng bất bộ phái (Rime) còn sống ngày nay. Hiện Ngài đang hoàn thành cuốn tiểu sử 4 tập về cuộc đời của mình ở Tây tạng trước đây và cuộc sống hiện tại ở Tây phương.

TPHCM – 16.9.2011

Sunday, 11 May 2014

Trì tụng thần chú một cách có ý nghĩa (Thiện Niệm)

(TG&DT) - Thần chú mang lại cho chúng ta sự bình tĩnh, tự tại, thăng bằng và thoải mái khi gặp khó khăn. Khi trì tụng thần chú, chúng ta nên giữ cảm giác tích cực, hoan hỷ và cống hiến, hồi hướng công đức ấy cho tất cả chúng sanh được giác ngộ và an lạc, như là một hành động từ bi cao cả.

Miss La Sen vẫn thường trì tụng thần chú [recite mantra, Mantra Chanting], vì đó là 1 trong những pháp môn của đạo Phật.

 

Cô trì tụng thần chú không phải để cầu lợi ích cho cá nhân, không phải dựa vào bùa chú để đạt được những mong cầu, mà chỉ để tu tập theo chân của những bậc đạo sư đã giác ngộ, tìm một cảm giác thăng bằng, tự tại.

 

Vì sư phụ cô đã dạy rằng: “Thần chú mang lại cho chúng tasự bình tĩnh, tự tại, thăng bằng và thoải mái khi gặp khó khăn. Khi trì tụng thần chú, chúng ta nên giữ cảm giác tích cực, hoan hỷ và cống hiến, hồi hướng  công đức ấy cho tất cả chúng sanh được giác ngộ và an lạc, như là một hành động từ bi cao cả.”.

 

Tuy nhiên, một số người lại sử dụng việc tụng thần chú vì lợi ích cá nhân, cầu danh lợi, chứ không thực hành theo ý nghĩa đúng đắn của nó.

 

Cách đây hơn 2.500 năm, khi đức Phật Thích Ca Mâu Ni sinh ra ở Ấn Độ, thời đó ngôn ngữ được dùng là tiếng Sanskrit (tiếng Phạn).

 

Vì vậy thần chú mà chúng ta trì tụng hầu hết đều là tiếngSanskrit, chỉ 1 số ít được trì bằng ngôn ngữ Tây Tạng [Tibetan].

 

Khi trì chú, chúng ta nên để cho tâm được tập trung nhưng vẫn giữ trạng thái thật thư giãn, thả lỏng và không nghĩ tới bất cứ điều gì khác. Chỉ cần tập trung tâm cho việc trì tụng thần chú.

 

Nên nhớ rằng, dù tu tập theo phương pháp gì  đi nữa thì điều quan trọng nhất luôn được  đề cập và nhấn mạnh trong Phật giáo  vẫn là nên làm những điều thiện và luôn tránh xa điều ác !

 

Trong đạo Phật có nhiều tông phái khác nhau.Tuy nhiên, có 3  tông phái  của Phật giáo mà hầu hết những người đang nghiên cứu Phật giáo đều biết, đó là : Đại Thừa[Mahayana], Nguyên Thủy [Theravada] và Mật tông[Varjayana].

 

Phật giáo Đại thừa có mặt ở khắp mọi nơi trên thế giới. Trong khi Phật giáo nguyên thủy chỉ có ở các nước Đông Nam Á.

 

Mật thừa, Kim Cang Thừa -Varjayana chủ yếu ở Tây Tạng.

 

Mặc dù truyền thống, phương pháp tu có khác nhau, nhưng chúng ta luôn phải ý thức rằng  tông phái nào thì cũng đều là những  phương pháp tu tập thực sự chính thống của Phật giáo.Những người khác nhau sẽ có những cách thực hành, tu tập khác nhau cho Phật giáo.

 

Dưới đây là 1 số câu thần chú Phật giáo [ Buddhist mantra] phổ biến:

 

1.    Câu tâm Chú Lăng Nghiêm :để hàng phục ma quỷ như trong kinh Thủ Lăng nghiêm Phật đã nói.



 

Tâm chú Lăng nghiêm [Surangama Heart Mantra]:

 

OM  ANALE  VISADE  VIRA VAJRA-DHARE BANDHA BANDHANI VAJRA-PANI PHAT HUM TRUM PHAT SOHA.

 

2. Câu tâm Chú Chuẩn Đề: 


 

OM CALE CULE CUNDI SOHA [hay bản dịch tiếng Hán làÁn chiết lệ chủ lệ Chuẩn Đề ta- bà- ha].

 

Từ xưa người ta đã quen vẽ 9 chữ thần chú Chuẩn Đề thành 1 vòng tròn để thờ trong nhà và hàng ngày trì tụng để mang lại những kết quả tốt đẹp, linh nghiệm trong cuộc sống.

 

Câu chuyện ” Liễu Phàm Tứ Huấn” có nói về  người trìchú Chuẩn-Đề và tới ngày ứng nghiệm ra sao.

 

3. Lục Tự đại minh Chú - OM MANI PADME HUM  của Quán Thế Âm bồ tát.


 

4. Thần chú của Phật Di Đà : OM AMIDEWA HRIH


 

Seed syllable of Amitabha is “Hrih” [ “Hriḥ” in Tibetan Uchen ]

 

Hrihđạidiệnchonhững phẩm chất củaĐức Phật Di Đà ởTây phương cực lạc,chủ yếu làthiền địnhlòng từ bi.

 

5.Thần chú của Phật Thích Ca: OM MUNI MUNI MAHA MUNIYE SVAHA





Thần chú này nhằm tiêu diệt tội chướng, nhanh chóng giải thoát.


[Seed-syllable of Sakyamuni is “Bhah” ].

 

6. Thần chú Địa Tạng: OM BOLAMO, LING TO LING SOHA


 

Chú Địa Tạng làm tiêu hết các nghiệp chướng xấu


[The seed syllable of Kṣitigarbha is “ha”].

 

 

7. Thần chú của ngài Văn Thù sư lợi bồ tát: OM A RA PA CA NA DHIH




Thần chú này mang lại trí tuệ viên mãn.

 

[Manjusri 's seed syllable is “Dhiḥ”, the seed syllable of perfect wisdom]

 

8. Thần chú của vị thần tài Phật giáo ZAMBALA[ZAMBALA - God of Wealth], còn nhiều cách viết khác làYellow ZAMBHALA, Jambala, hoặc Jambhala,Dzambala… v.v. Tiếng Trung Hoa là :  黄财神



 

Zambala được coi là 1 vị Phật mang lại của cải, giàusang[ The wealth-giving Buddha].

 

Người ta  cho rằng nếu gặp khó khăn hoặc lo âu trong tiền bạc, tài chánh thì có thể niệm tên ngài Zambala hoặc trì tụng thần chú của ngài là :

 

OM ZAMBALA JARDIN JAYA SOHA. [hoặc OM  ZAMBALA  ZALENDHRAYE  SOHA]… thì sẽ được toại nguyện như ý.


 

Quan niệm của  Phật tử Tây Tạng trong việc thờ phượng hoặc thực hành trì chú Zambala là để xua tan sự lo âu, bất an về tiền bạc [to eliminate the insecurity of worrying about money].

 

Dân gian thường gọi ngài là “Zambala - God of Wealth.[Zambala- vị thần của giàu sang].

 

Tại các vùng Tây Tạng, Trung Quốc, Ấn Độ…  tôn tượng, chân dung hoặc chữ tâm chú [seed syllable] của ngài Zambala được người dân thờ phượng rất thành kính. Người ta cho rằng bày tỏ tâm thành, thờ cúng ngài chu tất sẽ được thần Zambala mang đến tiền tài, giàu sang như ý cho bản thân cũng như gia đình.

 

Phật giáo là một sự kết hợp thông thái, hài hòa giữa triết học và tôn giáo. Triết lý và giáo lý của Phật giáo rất sâu sắc, vi diệu, là chân lý tột đỉnh để giúp chúng ta ứng xử, đối phó phù hợp với cuộc sống hàng ngày đầy thử thách.

 

Đạo Phật có 8 vạn 4 ngàn pháp môn. Vì vậy Đạo Phật có rất nhiều tông phái, và tất cả các tông phái này đều hướng con người đến giác ngộ và giải thoát.

 

Pháp tu theo mật tông trì chú cũng là 1 pháp tu của nhà Phật. Khi chúng ta trì chú cũng nên hồi hướng công đức ấy cho tất cả chúng sanh được an lạc và giác ngộ, có như vậy thì việc trì chú của chúng ta càng có ý nghĩa hơn nhiều.

 




Thiện Niệm

Bình luận (3)

Con cún này dễ thương quá, nên tạo các POSM về nó để phát cho các Phật tử, cũng là 1 cách hoằng pháp cho đạo Phật của mình đi vào lòng người, nhứt là người trẻ. 
Cuongpham ( 16/12/2011 23:16:08)
Con cún đứng trước 2 cái lá 2 bên nhìn như thiên thần, khá là xinh 
Như An ( 14/12/2011 17:32:00)
kết nhất là hình ông thần tài Zambala,in hình này ra treo tường cho có tài lộc vô hí 
minh tiến ( 13/12/2011 01:23:47)

Viết bình luận mới

Tên bạn
Email
Nội dung
 

Friday, 9 May 2014

Thập Chú ( 10 Mantras )


NHƯ Ý BẢO LUÂN QUÁN ÂM

1/ NHƯ Ý BẢO LUÂN VƯƠNG ĐÀ LA NI
oooooNamo Buddhaya
oooooNamo Dharmaya
oooooNamo Sanghaya.
oooooNamo Avalokitesvaraya bodhisattvaya mahasattvaya, maha karunikaya.
oooooTadyatha: 
oooooOM CHAKRA, VARTTI, CINTAMANI, MAHA PADMA, RURU, TISTA, JVALA AKARSAYA, HUM, PHAT, SVAHA. OM PADMA, CINTAMANI, JVALA HUM. OM VARADA, PADME HUM

Âm Hán:
oooooNam mô Phật đà gia
oooooNam mô đạt ma da
oooooNam mô tăng già da.
oooooNam mô Quán tự tại bồ tát ma ha tát, cụ đại bi tâm giả. 
oooooĐát điệt tha:
oooooÁn chước yết ra, phạt để, chấn đa mạt ni, ma ha bát đằng mế, rô rô (rô rô), để sắt tra, thước la, a yết rị sa dạ, hồng, phấn, toá ha. Án bát đạp ma, chấn đa mạt ni, thước ra hồng. Án bát lặc bà, bát đẳng mế hồng.

Âm Việt:
oooooNam mô Bút đa gia
oooooNam mô đạc ma gia
oooooNam mô xăng ga gia.
oooooNam mô Avalôkitê sờ va ra gia, bô đi sát toa gia, ma ha sát toa gia, ma ha ka ru ni ka gia.
Tát gia tha:
oooooÔm cha kờ ra, vạc ti, chin ta ma ni, ma ha pát ma, ru ru, ti shờ ta, gioa la, a các sa gia, hum, phat, xóa ha. Om pát ma, chin ta ma ni, gioa la hum. Ôm va ra đa, pát mê hum.

Nghĩa:
oooooQuy y Phật, Quy Y Pháp, Quy y Tăng.
oooooCon xin quy mệnh với Đức Chuyển luân vương như ý bảo châu đại liên hoa là Bậc đã xa lìa Nội Trần và Ngoại Trần. Con xin an trụ theo ánh lửa rực rỡ của Ngài để thỉnh triệu Chư Phật, Bồ Tát, Hiền Thánh Chúng, Tám Bộ Trời Rồng, Chư Vị Hộ Pháp nhắm giúp cho con phá bại Tâm vị ngã, phát khởi Tâm bồ đề, thành tựu cát tường.

Xuất Xứ:
oooooNhư Ý Tâm Đà La Ni Kinh. Nội dung kinh này nói về Bồ tát Quán Tự Tại được sự chấp thuận của Đức Phật liền tuyên thuyết Vô Chướng Ngại Quán Tự Tại Liên Hoa Như Ý Bảo Luân Vương Đà La Ni . Đức Phật lại bảo: Nếu người nào tụng chú này 1 biến thì trừ được tội, qua được tai nạn, thành tựu sự nghiệp. Còn nếu ngày nào cũng tụng 108 biến thì sẽ có cảm ứng khiến thấy được thế giới Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà và núi Bổ Tát La nơi Bồ tát Quán Thế Âm cư ngụ, khỏi đọa vào đường ác.


OAI ĐỨC KIM LUÂN XÍ THẠNH QUANG PHẬT

2/ TIÊU TAI CÁT TƯỜNG THẦN CHÚ
oooooNamah samanta, Buddhanam, apratihatasa, sananam.
oooooTadyatha: 
oooooOM KHA KHA, KHAHI, KHAHI, HUM HUM, JVALA JVALA, PRAJVALA PRAJVALA, TISTA TISTA, SITIRI SITIRI, SPHATI SPHATI, SHANTIKA, SRIYE SVAHA.

Âm Hán:
oooooNam mô tam mãn đà, mẫu đà nẫm, a bát ra để hạ đa xá, ta nẳng nẫm, đát điệt tha:oooooÁn khư khư, khư hứ, khư hứ, hồng hồng, nhập phạ ra, nhập phạ ra, bát ra nhập phạ ra, bát nhập phạ ra, để sắt sá để sắt sá, sắt trí rị sắt trí rị, ta phấn tra ta phấn tra, phiến để ca, thất rị duệ, ta phạ ha.

Âm Việt:
oooooNa ma xa măng ta, bút đa nam, a pờ ra ti ha ta xa, xa na nam, Tát gia tha:oooooÔm kha kha, kha hi, kha hi, hum hum, gioa la gioa la, pờ ra gioa la, pờ ra gioa la, ti shờ ta, ti shờ ta, sít ti ri, sít ti ri, sờ pha ti, sờ pha ti, shăng ti ka, shi ri giê, xóa ha.

Nghĩa:
oooooHỡi ánh lửa rực rỡ của Như Lai Vô Kiến Đỉnh Tướng đã thiêu cháy mọi năng chấp, sở chấp, hãy tỏa sáng rực rỡ khiến cho con được an trú trong sự gia trì này nhằm phá tan sự trì độn chậm chạp của Nội Chướng và Ngoại Chướng. Đồng thời khiến cho con dứt trừ được mọi tai nạn, thành tựu sự an vui tốt lành.

Xuất Xứ
oooooKinh Xí Thạnh Quang Đại Oai Đức Tiêu Tai Cát Tường Đà La Ni. Thần chú tiêu trừ các tai nạn, thành tựu việc cát tường. Một trong 4 Đà La Ni thông dụng trong Thiền lâm, cũng là pháp Tức Tai trong Mật giáo. Thần chú này xuất phát từ Kinh Xí Thạnh Quang Đại Oai Đức Tiêu Tai Cát Tường Đà La Ni và Kinh Đại Oai Đức Kim Luân Phật Xí Thạnh Quang Như Lai Tiêu Diệt Nhất Thiết Tai Nạn Đà La Ni.


ĐẠI NHẬT NHƯ LAI

3/ CÔNG ÐỨC BẢO SƠN ÐÀ LA NI
oooooNamo Buddhaya,
oooooNamo Dharmaya,
oooooNamo Sanghaya.oooooOM SIDDHI, HOH DHURU, SUDHURU, GARJA, GARBHA, SADHARI, PURNI, SVAHA.

Âm Hán 
oooooNam mô Phật đà da, 
oooooNam mô Đạt ma da,
oooooNam mô Tăng dà gia.oooooÁn tất đế, hộ rô rô, tất đô rô, chỉ rị ba, kiết rị bà, tất đạt rị, bố rô rị, ta phạ ha.

Âm Việt:
oooooNam mô Bút đa gia,
oooooNam mô đạc ma gia,oooooNam mô xăng ga gia.oooooÔm sít đi, hô đu ru, xu đu ru, gạc gia, gạc ba, xát đa ri, puộc ni, xóa ha.

Nghĩa:
Quy y Phật, Quy Y Pháp, Quy y Tăng.
Vinh quang thay sự thành tựu ! Hãy vui vẻ ôm giữ, khéo ôm giữ kho tàng Chân Như! Hãy khéo giữ gìn tự tính an lạc của Đại Niết Bàn.

Xuất Xứ: 
oooooKinh Ðại Tập (Sutrasamuccaya)oooooNếu người tụng chú này một biến, công đức cũng bằng như lễ Ðại Phật Danh kinh bốn vạn năm ngàn bốn trăm biến. Lại như chuyển Ðại Tạng 60 vạn 5 ngàn 4 trăm biến. Tạo tội quá mười cõi sát độ, đọa vào A Tỳ địa ngục chịu tội, kiếp hết lại sanh nơi khác để chịu tội. Niệm chú này một biến, tội kia đều được tiêu diệt, không còn đọa vào địa ngục, khi mạng chung quyết định vãng sanh Tây phương thế giới, được thấy Phật A Di Ðà, thượng phẩm thượng sanh.





CHUẨN ĐỀ ĐẠI PHẬT MẪU

4/ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ THẦN CHÚ
oooooNAMO SAPTÀNÀM, 
oooooSAMYAKSAMBUDDHÀYA, KOTINÀM, TADYATHÀ: OM CALE CULE CUNDHE SVAHA.

Âm Hán:
oooooNam mô tát đa nẫm, tam miệu tam bồ đà, câu chi nẫm, đát điệt tha: Úm chiết lệ chủ lệ Chuẩn Đề ta bà ha.

Âm Việt:
oooooNam mô xáp ta nam, xam mi ác, xam bút đa gia, kô ti nam, tát gia tha: Ôm cha lê, cha lê, chun đê xóa ha.

Nghĩa:
oooooQuy mệnh Bảy trăm triệu Chính Đẳng Chính Giác - Như vậy liền nói chú rằng: Khi Thân, Khẩu, Ý hợp nhất với sự Giác Ngộ Phật Tính sẽ đi thẳng vào tự tính thanh tịnh của Tâm Bồ Đề và thọ nhận mùi vị an lạc của Đại Niết Bàn.

Xuất Xứ
oooooPhật Mẫu Chuẩn Đề Đà La Ni Kinh oooooNgười trì tụng thần chú này đủ chín chục ngàn biến, có thể diệt được các tội thập ác, ngũ nghịch, tiêu trừ tai nạn, bịnh hoạn, tăng nhiều phước thọ.


VÔ LƯỢNG THỌ TRÍ QUYẾT ĐỊNH QUANG MINH
VƯƠNG NHƯ LAI

5/ THÁNH VÔ LƯỢNG THỌ QUANG MINH VƯƠNG ĐÀ LA NI
oooooOM NAMO BHAGAVATE, APARAMITA, AJURJNÀNA, SUVINE, SCITA TEJA RÀJAYA, TATHÀGATÀYA, ARHATE, SAMYAKSAMBUDDHÀYA, oooooOM SARVA SAMSKÀRA PARI’SUDDHA, DHARMATE, GAGANA, SAMUDGATE SVÀBHAVA, VISUDDHE, MAHÀ NAYA, PARIVERE, SVÀHÀ.

Âm Hán:
oooooÁn nại ma ba cát ngoả đế, a ba ra mật ra đạp, a ưu rị a nạp, tô tất nể, thiệt chấp đạp, điệp tả ra để dã, đát tháp cả đạt dã, a ra ha đế, tam dược tam bất đạt dã, đát nể dã tháp.oooooÁn tát rị ba, tang tư cát rị, bốc rị thuật đạp, đạt ra mả đế, cả cả nại, tang mã ngột cả đế, ta ba ngoả, tỷ thuật đế, mã hắt nại dã, bát rị ngỏa rị tá hắt.

Âm Việt:
oooooÔm nam mô bà ga va tê, a pa ra mít ta, a duộc giờ nha na, xu vi nê, xít ta, tê gia ra gia gia, ta tha ga ta gia, a ra ha tê, xam mi ác xam bút đa gia.oooooÔm xa oa, xăng xờ ka ra, pa ri sút đa, đạc ma tê, ga ga na, xa mút ga tê xoa ba va, vi sút đê, ma ha na gia, pa ri vê rê, xóa ha.

Nghĩa:
oooooQuy mệnh kính lễ Đức Thế Tôn VÔ LƯỢNG THỌ TRÍ QUYẾT ĐỊNH QUANG MINH VƯƠNG Như Lai Ứng Cúng Chính Đẳng Chính Giác. oooooOM, tất cả hoạt động Tâm Ý đều là Pháp Tính cực thanh tịnh. Thanh tịnh như Tự Tính thắng thượng của Hư Không. Hãy phát khởi Thắng Nguyện rộng lớn để mau chóng đạt được sự an lạc thanh tịnh của Đại Niết Bàn.

Xuất xứ
oooooThánh vô lượng thọ quyết định quang minh vương Như Lai đà la ni kinh.


DƯỢC SƯ LƯU LY QUANG NHƯ LAI

6/ DƯỢC SƯ QUÁN ĐỈNH CHÂN NGÔN
oooooNAMO BHAGAVATE, BHAISAIJYA GURU, VAITURYA, PRABHA, RAJAYA TATHAGATAYA, ARHATE, SAMYAK SAMBUDDHAYA,
oooooTADYATHA. 
oooooOM BHAISẠIJYE, BHAISAIJYE, BHAISAIJYA, SAMUDGATE SVÀHÀ.

Âm Hán:
oooooNam mô Bạc-già-phạt-đế, bệ sát xả lụ-rô, thích lưu-li, bát lạt bà, hắt ra xà giã, đát tha yết đa gia, a ra hát đế, tam miệu tam bột đà gia, 
oooooĐát điệt tha.
oooooÁn bệ sát thệ, bệ sát thệ, bệ sát xã, tam một yết đế tóa ha.

Âm Việt:
oooooNam mô ba ga va tê, bai xa gia gu ru, vai tu ri gia, pờ ra ba, ra da gia, ta tha ga ta gia, a ra ha tê, xam mi ác xam bút đa gia,
oooooTát gia tha.
oooooÔm bai xa giê, bai xa giê, bai xa gia, xa mút ga tê, xóa ha.

Nghĩa:
oooooQuy mệnh Đức Thế Tôn DƯỢC SƯ LƯU LY QUANG VƯƠNG Như Lai Ứng Cúng Chính Đẳng Chính Giác - Như vậy liền nói chú rằng:Xin Ngài hãy ban cho con thuốc diệt trừ bệnh quả báo, bệnh nghiệp ác, bệnh kiến tư, bệnh trần sa, bệnh vô minh để cho con mau chóng phát sinh được đạo quả Vô Thượng Bồ Đề.

Xuất Xứ:
oooooKinh Dược Sư oooooNếu ai có bịnh chi, chỉ chuyên nhứt tâm đọc thần chú này 108 biến để chú nguyện vào ly nước sạch rồi uống thì các bệnh đều tiêu trừ. Còn người nào chuyên tâm trì tụng trọn đời thì được không đau ốm, đến lúc mạng chung được vãng sanh về thế giới Tịnh Lưu Ly bên Đông Phương của Phật Dược Sư.


QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT

7/ QUAN ÂM LINH CẢM CHÂN NGÔN
oooooOM MANI PADME HÙM,
oooooMAHÀ JNÀNA, KETU SAVÀDA, KETU SÀNA, VIDHÀRIYA, SARVÀRTHA, PARISÀDHAYA, NÀPURNA, NÀPARI, UTTÀPANÀ, NAMAH LOKE’SVARÀYA, SVÀHÀ.

Âm Hán:
oooooÁn ma ni bát di hồng, 
oooooMa hắt nghê nha nạp, tích đô đặt ba đạt, tích đặt ta nạp, vi đạt rị cát, tát nhi cáng nhi tháp, bốc rị tất tháp cát, nạp bổ ra nạp, nạp bốc rị, thưu thất ban nạp, nại ma lô kiết thuyết ra gia, tóa ha.

Âm Việt:
oooooÔm ma ni pát mê hum,
oooooMa ha giờ nha na, kê tu xa va đa, kê tu xa na, vi đa ri gia, xạc oa tha, pa ri sa đa gia, na puộc na, na pa ri, út ta pa na, na ma lô kết sờ va ra gia, xóa ha.

Nghĩa:
oooooOM MA NI BÁT MÊ HÙM là tính chất mầu nhiệm của cây phướng Đại Trí. Hãy ngồi dưới cây phướng ấy, xa lìa mọi sự chấp giữ mà thành tựu trong khắp các cõi. Hãy luyện các căn cho thanh tịnh để thành tựu viên mãn các pháp và siêu việt tất cả. Con xin quy mệnh công đức nội chứng của Đức Thế Tự Tại. Nguyện cho con được thành tựu như Ngài.

Xuất Xứ: 
Kinh Trang Nghiêm Bảo Vương
Phật bảo Trừ Cái Chướng Bồ Tát rằng: Sáu chữ Ðại Minh Ðà La Ni này khó được gặp gỡ, nếu có người nào được sáu chữ Ðại Minh Vương đây, thì người đó tham, sân, si, độc không thể nhiễm ô. Nếu đeo mang trì giữ nơi thân, người đó cũng không nhiễm trước bịnh ba độc. Chơn ngôn này vô lượng tương ưng, với các Như Lai mà còn khó biết, huống gì Bồ Tát làm thế nào biết được. Ðây là chỗ bổn tâm vi diệu của Quán Tự Tại Bồ Tát.


THẤT PHẬT QUÁ KHỨ

8/ THẤT PHẬT DIỆT TỘI CHÂN NGÔN
oooooREPA REPATE, KUHA KUHATE, TRANITE, NIGALA RITE, VIMARITE, MAHA GATE, SANTIM KRITE, SVAHA.

Âm Hán:
oooooLy bà ly bà đế, cầu ha cầu ha đế, đà ra ni đế, ni ha ra đế, tỳ lê nễ đế, ma ha dà đế, chơn lăng càng đế, ta bà ha.

Âm Việt:
oooooRê pa rê pa tê, ku ha ku ha tê, tờ ra ni tê, ni ga la ri tê, vi ma ri tê, ma ha ga tê, xăng tim kờ ri tê, xóa ha.

Nghĩa:
oooooMọi đường lối và tính chất của sự thấp hèn đều tuân theo sự hấp thụ điều cao quý và tính chất cao quý mà vận chuyển thành ánh sáng rực rỡ vinh quang. Đây là con đường rộng lớn hay chận đứng mọi tai họa để viên mãn Phước Trí.

Xuất xứ : 
Đại phương đẳng đà la ni kinh
Đây là bài chú của bảy đức Phật đã nói từ những đời quá khứ. Thần chú này hay diệt được các tội tứ trọng, ngũ nghịch và được vô lượng phước, nếu thành tâm trì tụng.


A DI ĐÀ PHẬT

9/ VÃNG SINH TỊNH ĐỘ ĐỘ ĐÀ LA NI
oooooNAMO AMITÀBHÀYA, TATHÀGATÀYA,
oooooTADYATHÀ: 
oooooAMRITOD BHAVE AMRITA SIDDHAM BHAVE, AMRITA VIKRÀNTE, AMRITA VIKRÀNTA, GAMINI, GAGANA , KÌRTI KARE, SVAHA.

Âm Hán:
oooooNam mô a di đa bà dạ, đá tha dà đá dạ, đá địa dạ tha: 
oooooA di rị đô bà tỳ, A di rị đá tất đam bà tỳ, A di rị đá tì ca lan đế, A di rị đá tì ca lan đá, dà di nị, dà dà na, chỉ đa ca lệ ta bà ha.

Âm Việt:
oooooNam mô a mi ta ba gia, ta tha ga ta gia, 
oooooTát gia tha: 
oooooA mi ri tốt ba vê, a mi ri ta xít đam ba vê, a mi ri ta vi kờ răng tê, a mi ri ta vi kờ răng ta, ga mi ni, ga ga na, kiệc ti ka rê, xóa ha.

Nghĩa:
oooooQuy mệnh A Di Đà Như Lai. Ngài liền nói chú rằng: Hiện lên Cam Lộ, phát sinh Cam Lộ, Cam Lộ dũng mãnh, đạt đến Cam Lộ dũng mãnh, rải đầy hư không, thành tựu cát tường.

Xuất xứ
Kinh niệm Phật ba la mật
Người chuyên tụng chú này được Phật A Di Đà thường ngự trên đỉnh đầu ủng hộ, hiện đời an ổn, khi mạng chung được tùy ý vãng sanh.


CÁT TƯỜNG THIÊN NỮ

10/ THIỆN NỮ THIÊN CHÚ
oooooNAMO BUDDHÀYA
 oooo NAMO DHARMÀYA, 
oooooNAMO SANGHÀYA. 
oooooNAMO SRÌ MAHÀ DEVÀYA, TADYATHÀ,
PARIPÙRNA, CALE, SAMANTA DARSANI,
MAHÀ VIHARA GATE, SAMANTA, VIDHÀNA GATE,
MAHÀ KARYA PATI, SUPARIPÙRE,
SARVATHA, SAMANTA, SUPRATI, PÙRNA,
AYANA, DHARMATE, MAHÀ VIBHASITE, MAHÀ MAITRE
UPASAMHÌTE, HE ! TITHU, SAMGRHÌTE,
SAMANTA ARTHA ANUPALANI.

Âm Hán:
oooooNam mô Phật Đà gia,
oooooNam mô Đạt Ma gia,
oooooNam mô Tăng già gia.oooooNam mô thất lị ma ha đề tỷ gia, đát nễ dã tha,
Ba lị phú lâu na, giá lị, tam mạn đà, đạt xá ni,
Ma ha tỳ ra ha đế, tam mạn đà, tỳ ni già đế,
Ma ha ca lị dã ba nễ, ba ra ba nễ,
Tát lị phạ lật tha, tam mạn đà, tu bát lê đế, phú lệ na,
A lị na, đạt ma đế, ma ha tỳ cổ tất đế, ma ha di lặc đế,
Lâu phả tăng kỳ đế, hê đế tỷ, tăng kỳ hê đế,
Tam mạn đà, a tha a nậu đà la ni.

Âm Việt:oooooNam mô Bút đa gia, 
oooooNam mô đạc ma gia,
oooooNam mô xăng ga gia.oooooNam mô shi ri ma ha đê va gia, tát gia tha,
Pa ri puộc na, cha lê, xa măng ta, đạc xa ni,
Ma ha vi ha ra ga tê, xa măng ta, vi đa na ga tê,
Ma ha ka ri gia pa ti, xu pa ri pu rê,
Xác oa tha, xa măng ta, xu pờ ra ti, puộc na,
A gia na, đạc ma tê, ma ha vi ba si tê, ma ha mai tờ rê,
U pa xăng hi tê, hê ti thu, xăng gờ ri hi tê,
Xa măng ta ạc tha, a nu pa la ni.

Nghĩa:
oooooQuy y Phật, Quy Y Pháp, Quy y Tăng. oooooQuy y Cát Tường Đại Thiên. Chú nói như vậy:
Hỡi Đấng quyền năng hay ban bố sự viên mãn thù thắng !
Đấng chủ tể Đại Tác Nghiệp hay nhìn thấy khắp nẻo rộng lớn !
Hãy khéo léo làm cho tất cả đều được đầy đủ.
Hãy khiến cho khắp tất cả mọi nơi đều được sự viên mãn thù thắng tối thượng.
oooooHãy thể hiện lòng đại từ làm cho Lý pháp tính tỏa sáng màu nhiệm rộng lớn khiến cho con và chúng sinh được thích ứng với sự lợi ích chân chính. oooooMừng thay Đấng biểu hiện của lòng yêu thương. Đấng chân chính gìn giữ sự lợi ích. Hãy giúp cho con và chúng sinh đều gìn giữ được khắp mọi tài sản lợi ích.

Xuất xứ
Kinh Kim Quang Minh
Trong kinh này nói những kẻ tụng chú này, phàm muốn cần dùng điều chi thì đều được đầy đủ.